Sunday, October 30, 2011

Những chuyện ở nhà

Nhưng không phải nhà tôi với bố, mẹ, chị gái và em trai. Tiếng Việt có mấy từ như "ở trọ", 'ở ghép" hay "thuê nhà" dùng để diễn tả về tình trạng của tôi đều không đúng. Nếu nói là "homestay" thì đúng hơn cả mặc dù tôi là người Việt Nam ở nhà người Việt Nam.

Tôi "homestay" đã gần 2 năm, nhà có má Hoa, ba Quang, và cu Nhân. Má Hoa kỳ lạ vì đã 45 tuổi nhưng còn ham làm đẹp. Làm đẹp bằng nhiều cách, ăn uống là một, không cầu kỳ mà theo khoa học hẳn hoi. Tuần nào cũng có bữa ăn cá hồi, ớt chuông, gạo lứt... ít ăn thịt heo và trứng. Má chịu khó làm mặt nạ từ bơ với sữa tươi không đường để đắp hàng tuần. Tôi dĩ nhiên được ăn ké, và đắp mặt nạ ké, nhưng tôi không ké được cái "ham muốn" gìn giữ nhan sắc như của má Hoa. Có lẽ vì má hồi xưa cũng đẹp mặn mà, được lắm người mê, cho nên níu kéo cái gọi là "vang bóng một thời". Ba Quang thì khỏi chê khoản nấu ăn chu đáo, và hào phóng, chuyên nghề mời tôi uống bia và hút thuốc. Bia thì tôi đã uống nhưng thuốc thì chưa dám thử. Ba Quang kỳ lạ ở chỗ hơn 45 tuổi đầu nhưng vẫn còn xin tiền mẹ, và phần lớn thời gian là ăn và ngủ. Cu Nhân thì học lớp 11 rồi nhưng toàn tự xưng là "cu Nhân". Nó bé nhất trong nhà, và cũng chẳng có em út gì hết nên nó nghiễm nhiên nghĩ rằng nó vẫn là một thằng cu. Mục tiêu của tôi là dụ dỗ nó năm sau thi vào trường y làm bác sĩ. Nó có vẻ chịu rồi thì phải, đã tìm thầy học thêm toán, hóa, sinh.

Ông bà mình nói "bán anh em xa, mua láng giềng gần" cũng có cái lý của nó. Ở "homestay" thế này tôi dần thuộc tính mỗi người và có cảm giác ấm áp như đang ở nhà mình. Thấy thương má Hoa, ba Quang và cu Nhân hơn. Thế mới hay người dưng cũng có lúc biến thành người thân.

Sunday, October 16, 2011

ĐIỆP KHÚC KHỦNG HOẢNG

25 tuổi, tôi vẫn thường tự hỏi “tôi đang sống trong một xã hội như thế nào?”, không dễ dàng để tìm thấy câu trả lời thỏa mãn, nhưng tôi không thể cứ vô tư tồn tại mà không suy nghĩ về chúng. Năm 2008, khi tôi ra trường và bắt đầu đi làm, thì từ “khủng hoảng kinh tế “ vang lên như một điệp khúc bất tận.

Việt Nam độc lập được 35 năm, đổi mới được 25 năm, và hội nhập được 15 năm, nhưng là một công dân, tôi thấy bản thân mình còn lạc hậu, đất nước mình cũng vậy. Thành phố phát triển nhất Việt Nam có thu nhập bình quân đầu người thông kê năm 2010 vào khoảng 2,800$, nếu đem so sánh với Singapore có thu nhập bình quân gấp 20 lần, thì đúng là khập khiễng, như rồng với tôm. Nhưng đặt như vậy để thấy rằng Singapore với diện tích nhỏ hơn, dân số cùng gần tương đương với thành phố Hồ Chí Minh thì việc quy mô nhỏ nên dễ thành công khi áp dụng các chính sách kinh tế xã hội không phải là khác biệt cơ bản tạo nên rồng và tôm. Vấn đề là họ đã xây dựng những chính sách khoa học và hợp lý để phát triển cả hai mặt kinh tế và xã hội. Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và Việt Nam nói chung, điểm yếu là không thể đưa ra các chính sách hiệu quả và cũng không đủ trình độ quản lý để áp dụng các chính sách này.

Để quản lý một bộ máy từ nhỏ đến lớn như công ty gia đình, tập đoàn, trường học, bệnh viện, hay một đất nước chỉ bằng kinh nghiệm và cảm tính mà thiếu tư duy khoa học thì không thể phát triển được. Theo cuốn “Nhà kinh tế cảm tính”, để ra quyết định trong nhiều hoàn cảnh phức tạp thì dựa theo cảm tính đôi khi phát huy hiệu quả, nhưng trong phần lớn các trường hợp nếu thiếu phân tích logic và tư duy khoa học thì con người dễ bị cảm tính đánh lừa. Người ta xót xa nghe hay nhìn thấy một bệnh nhân ung thư vật vã với căn bệnh, nhưng người ta bỏ qua nếu nghe thấy hàng năm có hàng ngàn bệnh nhân ung thư ở Việt Nam. Nếu dựa vào cảm tính, con người dễ dàng xem nhẹ những vấn đề nghiêm trọng, đặc biệt nếu vấn đề đó được nêu chung chung qua những con số thống kê. Con số càng lớn, càng khô khan thì con người càng dửng dưng. Vì vậy, con người phải được trang bị về mặt tư duy và các công cụ ra quyết định để có thể giải quyết các vấn đề thực tế nghiêm trọng nhưng lại bị cảm tính đánh lừa làm người ta xem nhẹ. Ở Việt Nam, giáo dục lạc hậu, thiếu thốn dịch vụ y tế, đầu tư kém hiệu quả, chất lượng thực phẩm xuống cấp thê thảm, hệ thống giao thông lộn xộn… phải chăng đang bị xem nhẹ bởi các nhà quản lý cảm tính thiếu trình độ tư duy và hoạch định chính sách? Việc quản lý thiếu tư duy khoa học có thuộc phạm trù đạo đức hay không còn tùy thuộc quan điểm từng người. Nếu đúng như vậy, một đứa trẻ dễ dàng suy ra rằng Việt Nam cần phải phát triển đào tạo con người để khắc phục nhược điểm trên. Nhưng dao sắc không gọt được chuôi, những sản phẩm của chính nền giáo dục Việt Nam không thể đào tạo ra những con người có tư duy hay sáng tạo khác biệt được. Có vẻ như các nhà quản lý giáo dục đã bó tay sau khi nỗ lực cải cách sách giáo khoa, cải cách phương pháp dạy và học. Cái cần là cải cách con người họ không dám và không đủ khả năng để làm. Xu thế du học trong chục năm trở lại đây là dấu hiệu tốt, mang lại niềm hi vọng cho nền giáo dục Việt Nam. Tuy nhiên, tôi cho rằng sự tư duy và sáng tạo không thể được đào tạo chỉ trong vài năm, nó bắt rễ sâu hơn từ môi trường giáo dục trong gia đình và xã hội từ rất sớm. Hơn nữa, thành phần ưu tú khi du học về có cơ hội tham gia vào xây dựng và thực hiện các chính sách hay không, hay là các vị trí đó đã được dành sẵn cho các cậu ấm cô chiêu cũng du học trời tây. Việt Nam đang khát nhân tài nhưng với cơ chế này thì đất nước phải đợi chờ rất lâu để thỏa mãn cơn khát. Như ông Alan Phan nói thì sau năm 2030 Việt Nam mới có cơ may để làm việc ấy.

Tại Việt Nam, lạm phát đình đốn (kinh tế trì trệ, thị trường tài chính và bất động sản đóng băng, lạm phát cao, nội tệ mất giá) diễn ra hoàn toàn có thể giải thích được và có thể nó đã được dự đoán trước là sẽ xảy ra dù sớm hay muộn. Nguyên nhân là phần lớn vốn được sử dụng để đầu cơ, hay đầu tư vào các dự án kém hiệu quả. Ở Việt Nam, luật đầu tư còn nhiều kẽ hở, trong khi đó lại thiếu cơ chế bảo vệ thành quả nhà đầu tư, trình độ lao động cải thiện chậm, hạ tầng giao thông lạc hậu tăng chí phí,… thị trường đầy những nhà đầu tư tìm cơ hội làm giàu nhanh chóng. Khoa học kỹ thuật trong sản xuất đã rất lạc hậu, nếu Việt Nam không phát triển đào tạo người lao động thì năng suất lao động không thể tăng lên, và về lâu dài không thể thoát khỏi trì trệ về kinh tế.

Trái đất không nở ra nhưng con người ngày một đông lên cùng với tham vọng xây dựng thêm nhiều công trình. Khoảng cách ngày càng hẹp lại. Tương tác giữa con người với thiên nhiên, con người với con người diễn ra bằng tốc độ ngày càng nhanh, trong khi con người chưa kịp hiểu hết về những cách thức tương tác ấy. Ví dụ như khủng hoảng kinh tế diễn ra 4, 5 năm nay nhưng vẫn còn nhiều giả thiết khác nhau giải thích về nguyên nhân khủng hoảng. Con người đã không thể dự đoán trước cuộc khủng hoảng này cũng như gặp khó khăn trong việc dự đoán những diễn biến tiếp theo. Nguồn gốc sâu sa của cuộc khủng hoảng là đồng tiến vốn là đại diện cho giá trị dùng để trao đổi đã bị con người lạm dụng dùng để đại diện cho cả những giá trị ảo. Chế độ bản vị vàng, một công cụ để kiềm chế bớt sự lạm dụng này đã bị dỡ bỏ gần 1 thế kỷ mà không có sự thay thế nào. Thị trường tài chính là tay phủ thủy biến những dự tính trong tương lai thành giá trị ở hiện tại và hợp pháp hóa nó bằng sự đồng tình của chính phủ. Nhưng không phải dự tính nào cũng thành sự thật, và niềm tin vào những dự tính này lúc có lúc không còn tùy theo tâm trạng. Lúc lạc quan con người hay làm quá, có khi lên tận trời. Người ta nhận biết rõ điều này, nhưng có lẽ mọi người đều cho rằng hậu quả không rơi vào mình. Kết quả là các giá trị ảo phình lên dần theo sự phát triển của nền kinh tế và đến một lúc nào đó có dấ hiệu khiến con người trở nên bi quan thì các giá trị ảo này xẹp xuống, đó là lúc khủng hoảng xảy ra. Nếu không có một sự đột phá nào đó về công nghệ để làm các nhà đầu tư sôi nổi trở lại thì kinh tế thế giới sẽ còn trì trệ. Và nếu con người tiếp tục lạm dụng đồng tiền thì khủng hoảng sẽ lại xuất hiện với chu kỳ ngắn hơn và thiệt hại lớn hơn.

Monday, October 10, 2011

Kinh nghiệm phỏng vấn với công ty Nhật (p.2)

Nếu bạn chưa có nhiều kinh nghiệm giao tiếp hay làm việc với người Nhật, thì có thể 2 quyển sách sau đây sẽ rất có ích.

Quyển thứ nhất "Phong cách làm việc nơi công sở" mình được một bác người Nhật tặng. Bác Anan làm làm cho công ty Đồng Tâm được vài năm và bác ấy hiểu rõ sự khác biệt trong cách làm việc của người Việt Nam và người Nhật Bản. Thực sự mình thấy cuốn sách này mặc dù gồm những mẩu chuyện nho nhỏ và không có gì đặc biệt nhưng lại vô cùng hữu ích cho người mới bắt đầu làm cho công ty, tổ chức của Nhật. Tuy vậy, có một nguyên tắc mà mình không thể làm theo, là đôi khi làm những cuốc điện thoại không liên quan đến công việc ^^. Thực sự muốn sửa thói quen xấu này lắm mà không được. Sếp mình cũng đang khó chịu vì chuyện này đây.
Quyển thứ hai " Những điều dễ gây hiểu lầm về người Nhật". Một quyển sách hay vì không chỉ nêu ra những mindset và "thói quen" khó hiểu của người Nhật mà còn giải thích rất thuyết phục về chúng. Một chị đồng nghiệp cho mượn quyển này sau khi thấy mình liên tục gặp rắc rối với một sếp Nhật. Bây giờ thì hiểu ra tại sao mình gặp rắc rối. Nhưng vì cố chấp, mình không muốn "sửa sai" hay làm hòa với ảnh. Giá mà có một quyển tương tự "Những điều dễ gây hiểu lầm về người Việt" cho ảnh đọc.

Hi vọng, bạn nào cần những kiến thức này đọc xong sẽ chăm chỉ ứng dụng, chớ có bắt chước mình lười biếng và cố chấp.



     誤解される日本人
 外国人とまどう41の疑問

                   PHONG CÁCH
          LÀM VIỆC NƠI CÔNG SỞ



  
      
     
                                                                                  

Tuesday, October 4, 2011

CON ĐƯỜNG HẠNH PHÚC

Điều gì làm mình thấy thỏa mãn và công nhận "this is worth living for". Thử liệt kê ra đây:
  1. Khỏe mạnh
  2. Thấy bản thân mỗi ngày một tiến bộ trong nhận thức, công việc, quan hệ xã hội.
  3. Tạo ra được điều gì giá trị trong thế giới này. Giá trị là cái là do chính mình tạo ra trên nền tảng sẵn có và được xã hội công nhận? Chủ động tạo ra sản phẩm hữu hình, hay dịch vụ vô hình để phục vụ người khác. Có thể bằng kiến thức, bằng kết nối, bằng lao động tay chân...
  4. Được thỉnh thoảng đi du lịch và khám phá cuộc sống của một dân tộc khác, quốc gia khác, ngôn ngữ khác.
  5. Sống gần gũi với thiên nhiên.
Nếu bản thân mình không tìm được câu trả lời dứt khoát và chuyên chú đi theo những giá trị mà mình đã lựa chọn thì sẽ không tìm được hạnh phúc. Mỗi con người với những cá tính và hoàn cảnh sống khác nhau thì định nghĩa "hạnh phúc" cùng với cách thức để đạt được nó cũng sẽ khác nhau. Nếu cho rằng hạnh phúc là sự thỏa mãn cả về lý trí và cảm xúc khi đạt được điều mà cá nhân cho là cần đạt được thì mỗi cá nhân phải xác định được điều bản thân mong muốn là gì? Những điều mà cá nhân muốn đạt được được quyết định bởi nhu cầu của cá nhân và chi phối bởi  nhu cầu xã hội. Nhiều người đặt nhu cầu cá nhân lên trên hết, miễn là thỏa mãn bản thân là họ đã thấy hạnh phúc và không mấy quan tâm đến những gì ngoài cá nhân họ. Số khác lại chỉ hạnh phúc nếu được tập thể công nhận. Nhưng phần lớn đều cần cả hai để cảm thấy hạnh phúc.

Cây tầm gửi vẫn sẽ hạnh phúc theo cách riêng của nó chừng nào nó còn mong muốn là một cây tầm gửi. Con người, dù ở dạng nào, cũng hạnh phúc nếu còn mong muốn được là chính mình. Nhưng tầm gửi chỉ có một dạng, con người thì vô cùng phong phú, muốn biết mình là ai thì phải đi tìm. Bản thân tôi cho rằng một cá nhân phải phấn đấu hết sức để đạt được những giá trị mà bản thân đề cao, đồng thời không làm tổn lại đến tự do và an toàn của người khác, của xã hội. Khi đó bản thân sự thành tựu và hạnh phúc của cá nhân đó đã là một đóng góp cho xã hội. Như vậy cá nhân xác định được giá trị, cam kết theo đuổi nó, mà không mảy may làm tổn hại đến cộng đồng, là một con đường dẫn đến hạnh phúc.